Nguyên tắc và thực hành Thuật chiêm tinh

Những người ủng hộ định nghĩa chiêm tinh học là ngôn ngữ tượng trưng, một loại hình nghệ thuật, một ngành khoa học, và là phương pháp bói toán.[74][75] Mặc dù hầu hết hệ thống chiêm tinh của các nền văn hóa đều có chung nguồn gốc triết học cổ đại, tác động qua lại nhau, nhưng cũng có nhiều nền hệ thống sử dụng phương pháp khác biệt với phương Tây. Chúng bao gồm thuật chiêm tinh Hindu (hay còn được gọi là "thuật chiêm tinh Ấn Độ", trong thời hiện đại được gọi là "thuật chiêm tinh Vệ Đà") và thuật chiêm tinh Trung Quốc, cả hai đều có ảnh hưởng đến lịch sử văn hóa thế giới.

Phương Tây

Thuật chiêm tinh phương Tây là một hình thức bói toán dựa trên việc xây dựng horoscope cho một thời điểm chính xác, chẳng hạn như ngày sinh của một người.[76] Nó sử dụng đai hoàng đạo chí tuyến, được đồng chỉnh với điểm phân.[77]

Thuật chiêm tinh phương Tây được xây dựng dựa trên chuyển động và vị trí tương đối của các thiên thể như Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh, được phân tích bằng chuyển động của chúng thông qua các cung hoàng đạo (12 phân chia không gian của hoàng đạo) và các khía cạnh của chúng (dựa trên các góc hình học) có liên quan với nhau. Chúng cũng được xem xét bởi vị trí của chúng trong các "nhà" (12 phân chia không gian của bầu trời).[78] Thuật chiêm tinh hiện đại trong các phương tiện thông tin đại chúng thường được rút gọn thành thuật chiêm tinh cung mặt trời, tức là chỉ xem xét cung Mặt Trời tại ngày sinh của một người. Phương pháp này chỉ sử dụng 1/12 biểu đồ hoàng đạo.[79]

Horoscope thể hiện một cách trực quan tập hợp các mối liên hệ cho thời gian và địa điểm của sự kiện được chọn. Những mối liên hệ này đặt giữa bảy 'hành tinh', biểu thị cho các khuynh hướng như chiến tranh và tình yêu; 12 cung hoàng đạo; và 12 "nhà". Mỗi hành tinh đều nằm trong một cung cụ thể và một ngôi nhà cụ thể tại thời điểm được chọn. Khi hành tinh được quan sát từ nơi được chọn thì sẽ tạo ra 2 loại mối liên hệ.[80] Loại thứ 3 là là khía cạnh của mỗi hành tinh đối với mọi hành tinh khác, ví dụ như 2 hành tinh cách nhau một góc 120° (góc 'tam hợp') sẽ có mối quan hệ hài hòa, nhưng 2 hành tinh cách nhau một góc 90° ('góc vuông') lại có mối quan hệ xung khắc.[81][82]

Cùng với bói bài Tarot, chiêm tinh học là một trong những nghiên cứu cốt lõi của chủ nghĩa bí truyền phương Tây. Do đó, nó có ảnh hưởng đến các hệ thống tín ngưỡng ma thuật không chỉ giữa những người theo thuyết bí truyền phương Tây và thuyết Hermes, mà còn với cả hệ thống tín ngưỡng như Wicca, vốn vay mượn hoặc chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa bí truyền phương Tây.[83]

Hindu

Văn bản Vệ Đà sớm nhất về thiên văn học Vedanga Jyotisha. Tư tưởng Vệ Đà sau này cũng được đề cập trong chiêm tinh học.[84]

Thuật chiêm tinh dựa trên biểu đồ ngày sinh (natal astrology) của Hindu bắt nguồn từ thuật chiêm tinh thời kỳ Hy Lạp hóa vào thế kỷ 3 TCN.[85]:361[86] Dù vậy, thuât chiêm tinh Hindu vẫn có sự khác biệt khi tích hợp khái niệm nakshatra (tương đương với nhị thập bát tú).[87] Tên của các cung (ví dụ: Bạch Dương trong chiêm tinh Hy Lạp là 'Krios', thì trong chiêm tinh Hindu là 'Kriya'), các hành tinh (ví dụ: Mặt Trời trong chiêm tinh Hy Lạp là 'Helios', thì trong chiêm tinh Hindu là 'Heli') và thuật ngữ chiêm tinh (ví dụ: 'apoklima' và 'sunaphe' trong chiêm tinh Hy Lạp lần lượt là xích vĩgiao hội, thì trong chiêm tinh Hindu tương ứng là 'apoklima' và 'sunapha') trong những văn bản của nhà thiên văn Varahamihira được xem là bằng chứng thuyết phục về gốc gác Hy Lạp trong thuật chiêm tinh Hindu.[88] Thuật chiêm tinh Ấn Độ cũng có sự bổ sung của thuật chiêm tinh Babylon.[89]:231

Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á

Thuật chiêm tinh Trung Quốc có mối liên hệ chặt chẽ với triết học Trung Quốc (thuyết tam tài: thiên thời – địa lợi – nhân hòa) và sử dụng những khái niệm như âm dương, ngũ hành, thiên can, địa chithời thần (tức canh giờ, một cách tính thời gian sử dụng cho mục đích tôn giáo). Thời kỳ đầu, thuật chiêm tinh Trung Quốc chủ yếu chỉ sử dụng cho mục đích chính trị, quan sát những hiện tượng bất thường, xác định điềm gở và lựa chọn ngày lành tháng tốt cho những sự kiện và quyết định trọng đại.[22]:22,85,176

Chiêm tinh Trung Quốc không sử dụng hệ thống chòm sao trong đai hoàng đạo Tây Á và châu Âu; thay vào đó bầu trời được chia thành tam viên (三垣), và nhị thập bát tú (二十八宿) trong thập nhị thứ (十二次).[90] 12 con giáp ở Trung Quốc được cho là đại diện cho 12 nhân cách khác nhau. Nó dựa vào chu kỳ năm, tháng âm lịch, và mỗi hai giờ một ngày là một canh (thời thần). Theo truyền thống, chu kỳ 12 con giáp bắt đầu bằng , sau đó tiếp tục qua 11 con vật khác: Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.[91] Hệ thống dự đoán vận mệnh và định mệnh phức tạp dựa trên ngày sinh, mùa sinh, và giờ sinh của một người, chẳng hạn như tử bình (子平) và tử vi đẩu số (tiếng Trung giản thể: 紫微斗数; tiếng Trung phồn thể: 紫微斗數) vẫn còn được thường xuyên sử dụng trong chiêm tinh Trung Quốc cho đến ngày nay. Hệ thống này không dựa vào quan sát trực tiếp những vì sao.[92]

12 con giáp của Hàn Quốc gần giống với của Trung Quốc, chỉ khác là con vật thứ tám là cừu (yang) thay vì là dê (yeomso), dù vậy từ yang mượn từ tiếng Trung có thể đề cập đến bất kỳ loài nào thuộc họ Dê cừu. 12 con giáp của Việt Nam thì gần giống với của Trung Quốc, khác ở chỗ con vật thứ hai là trâu nước thay vì là , con vật thứ tư là mèo thay vì là thỏ.[93] 12 con giáp của Nhật Bản thì là cừu (hitsuji) thay vì dê (yagi), và lợn rừng (inoshishi, i) thay vì heo (buta).[94]